Trang chủ / Hoạt động chuyên môn / Phòng, chống bệnh truyền nhiễm / THÁI NGUYÊN ỨNG PHÓ VỚI BỆNH BẠCH HẦU
Phòng, chống bệnh truyền nhiễm

THÁI NGUYÊN ỨNG PHÓ VỚI BỆNH BẠCH HẦU

11/12/2023 - 204 Lượt xem

Bệnh bạch hầu là
căn bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến
tử vong một cách nhanh chóng. Ngay khi có trường hợp nghi ngờ mắc bệnh đầu
tiên, tỉnh Thái Nguyên đã có những biện pháp ứng phó kịp thời.
  

 

Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Trung
tâm kiểm soát bệnh tật, Trung tâm Y tế TP. Thái Nguyên, Trường Cao đẳng Công
nghiệp Thái Nguyên họp triển khai các biện pháp cấp bách phòng chống dịch bệnh
bạch hầu

Ngày
7-9, Thái Nguyên xuất hiện trường hợp dương tính với bệnh bạch hầu là nữ sinh
T.T.D, có địa chỉ thường trú tại thôn Há Pia, xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn (Hà
Giang), đang học lớp 10, Trường Cao đẳng Công nghiệp Thái Nguyên (xã Sơn Cẩm,
TP. Thái Nguyên
.

Điều tra yếu tố dịch tễ cho biết, ngày 4-9, em D có biểu hiện sốt, đau họng,
khó nuốt, khản tiếng, đau ngực (sáng cùng ngày trước khi vào viện vẫn đi học).
Do sốt cao liên tục tại trường, em D được y tế Nhà trường điều trị hạ sốt kháng
sinh chống viêm nhưng không đỡ
. Ngày 7-9, y tế Nhà trường đưa em D đến Bệnh viện Trung ương Thái
Nguyên khám, điều trị và được chẩn đoán suy hô hấp – theo dõi bạch hầu. Đến 16
giờ cùng ngày, bệnh nhân được chuyển đi Bệnh viện Nhi Trung ương điều trị tiếp.
Sau 2 ngày điều trị, bệnh nhân thở máy, sốt cao, được chẩn đoán theo dõi nhiễm
khuẩn huyết (bạch hầu), tiên lượng nặng. Bệnh nhân tử vong hồi 18 giờ ngày 9-9
.

Như
vậy sau rất nhiều năm, đến nay, Thái Nguyên lại xuất hiện trường hợp tử vong do
mắc bệnh bạch hầu.
Ngành
Y tế đã yêu cầu lực lượng y tế thành phố phối hợp với Trung tâm Kiểm soát bệnh
tật tỉnh tiến hành cách ly các trường hợp có liên quan đến ca bệnh. Đồng thời
chỉ đạo đưa
11 học
sinh
có triệu
chứng
vào cách ly, theo dõi, điều trị tại Khoa Bệnh nhiệt đới – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên và tại
Khoa Truyền nhiễm – Bệnh viện A Thái Nguyên.
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh đã lấy mẫu xét nghiệm gửi Viện Vệ
sinh dịch tễ Trung ương
đối với tất cả các trường hợp này, đến cuối ngày 9/9, 1 trường hợp trong số 6 học sinh đang
được theo dõi cách ly tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
cho kết quả dương tính với bệnh bạch hầu là
nam sinh L.M.P, sinh năm 2008, đến từ xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn (Hà Gian
g).

Ngay khi có ca bệnh đầu tiên, các biện pháp phòng dịch tại chỗ đã được
triển khai khẩn cấp
như
phun khử khuẩn tại ổ dịch; điều trị kháng sinh dự phòng cho học sinh
và giáo
viên
tiếp xúc gần với ca bệnh; khoanh
vùng và cách ly toàn bộ học sinh nội trú của Trường Cao đẳng Công nghiệp Thái
Nguyên;
đẩy mạnh tuyên truyền về các biện
pháp phòng chống bệnh bạch hầu
  

Kiểm tra khu cách ly tại Trường Cao đẳng công nghiệp Thái Nguyên, nơi phát hiện ca bệnh bạch hầu 

Theo
Viện Vệ
sinh dịch tễ Trung ương
,
bạch hầu là bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra
. Đây là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, có khả năng lây lan mạnh qua đường hô hấp
và gây bùng phát thành dịch. Căn bệnh này được xếp vào nhóm bệnh truyền nhiễm
nguy hiểm vì có tỷ lệ tử vong cao
, khoảng 5 10%. 

Bệnh bạch hầu lưu
hành trên toàn cầu, hay gặp là các ca bệnh tản phát hoặc các vụ dịch nhỏ, chủ yếu
ở nhóm dưới

15 tuổi không được tiêm vắc xin.
Tuy
nhiên hiện nay đã ghi nhận số mắc tăng ở nhóm trẻ lớn và người lớn tại những
vùng không được tiêm chủng hoặc tỷ lệ tiêm chủng thấp
.

Bệnh lây truyền từ
người sang người qua đường
hô hấp do tiếp xúc
trực tiếp với người bệnh hoặc người lành mang trùng và hít phải các chất tiết
đường hô hấp của người bệnh bắn ra khi ho, hắt hơi. Bệnh cũng có thể lây qua tiếp
xúc với
đồ vật bị ô nhiễm với các chất tiết của người bị nhiễm
vi khuẩn bạch hầu
.

Thời kỳ ủ bệnh thường
từ
2 đến 5
ngày.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu có sốt,
ho, đau họng, hạch góc hàm sưng đau (cổ bạnh), tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc
toàn thân, có
giả mạc màu trắng xám, dai, dính ở
amidal hoặc thành sau họng
. Bệnh nhân cũng có
thể bị viêm cơ tim, nhiễm độc thần kinh dẫn đến tử vong do ngoại độc tố của vi
khuẩn.

Người bệnh và người
lành mang trùng vừa
là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh,
trong đó người lành mang trùng đóng vai trò duy trì nguồn truyền nhiễm ở cộng đồng.
Thời kỳ lây truyền thường bắt đầu từ khi khởi phát và kéo dài khoảng 2
tuần, đôi khi lên tới 4 tuần. Trong một số trường hợp đã ghi nhận người mang vi
khuẩn mãn tính trên 6 tháng.

Sức đề kháng của vi khuẩn bạch hầu ở
ngoài cơ thể rất cao, chịu được khô lạnh, đặc biệt khi được chất nhày bảo vệ.
Trên đồ vải như chăn, màn, quần áo, gối có thể sống được 30 ngày; trên cốc,
chén, thìa, bát đũa, đồ chơi có thể sống được vài ngày; trong sữa, nước uống sống
20 ngày; trong tử thi sống được 2 tuần.
Tuy nhiên, vi
khuẩn bạch hầu nhạy cảm với các yếu tố lý, hoá. Dưới ánh sáng mặt trời trực tiếp
vi khuẩn sẽ bị giết chết sau vài giờ.
Ở nhiệt độ
58 độ C
, vi
khuẩn
sống được 10 phút và bị giết chết
nhanh chóng ở nhiệt độ sôi. Vi khuẩn cũng dễ bị tiêu diệt bởi các hoá chất khử
trùng thông thường
. Bên cạnh đó, điều trị kháng sinh đặc hiệu sẽ nhanh chóng tiêu diệt mầm bệnh và chấm dứt sự lây
truyền
của bệnh.

Mọi lứa tuổi đều
có thể bị mắc bệnh nếu không có miễn dịch đặc hiệu hoặc nồng độ kháng thể ở dưới
mức bảo vệ. Sau tiêm vắc xin liều cơ bản miễn dịch có thể kéo dài được vài năm
song thường giảm dần theo thời gian nếu không được
tiêm nhắc lại. Vì vậy, tiêm vắc xin phòng bệnh bạch hầu là biện pháp phòng bệnh
quan trọng và hiệu quả nhất.

Đối với trẻ em
dưới 1 tuổi bắt đầu được tiêm chủng
:

– Tiêm các mũi cơ
bản:

Tiêm 3 mũi cơ bản
vắc xin có chứa thành phần bạch hầu nguyên liều, thường kết hợp trong các vắc
xin 5 trong 1 hoặc vắc xin 6 trong 1.

+ Mũi thứ 1 tiêm lúc 2 tháng tuổi

+ Mũi thứ 2 tiêm lúc 3 tháng tuổi

+ Mũi thứ 3 tiêm lúc 4 tháng tuổi

Tốt nhất nên hoàn thành mũi 3 trước 6 tháng tuổi.


Tiêm nhắc lại:

+ Mũi 4: Tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu nguyên liều, tiêm lúc 18 24 tháng tuổi.

+ Mũi 5: Tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu giảm liều, lúc 4 7 tuổi.

+ Mũi 6: Tiêm vắc xin có thành phần bạch hầu giảm liều, lúc 9 15 tuổi.

Đối với trẻ em trên 1 tuổi và người lớn chưa được tiêm chủng
trước đây hoặc không nhớ tiền sử tiêm chủng:

– Tiêm các mũi cơ bản: Tiêm 3 mũi cơ bản vắc xin có chứa
thành phần bạch hầu

+ Mũi 1: tiêm càng sớm
càng tốt

+ Mũi 2: tiêm cách mũi thứ
1 tối thiểu 4 tuần

+ Mũi 3: tiêm cách mũi 2
tối thiểu 6 tháng

Tiêm nhắc lại: Tiêm nhắc lại 2 mũi vắc xin có chứa thành
phần bạch hầu. Các mũi tiêm nhắc lại cách nhau tối thiểu 1 năm.

Bên cạnh việc tiêm vắc xin
phòng bệnh, thì các biện pháp phòng dịch thông thường khác cũng cần được chú trọng
như:

Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, che miệng khi ho hoặc hắt hơi.

Giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng hàng ngày; hạn chế tiếp
xúc với người mắc/nghi ngờ mắc bệnh.

Thực hiện tốt vệ sinh nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông
thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng.

Đảm bảo vệ sinh thực phẩm, ăn chín, uống sôi, bát đũa sạch
sẽ.

Khi có dấu hiệu mắc bệnh/nghi
ngờ mắc bệnh phải thông báo ngay cho cơ quan y tế để được cách ly. Khám, xét nghiệm
và điều trị kịp thời. Người dân trong ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc uống
thuốc kháng sinh dự phòng và tiêm vắc xin phòng bệnh theo chỉ định và yêu cầu của
cơ quan y tế./.